Đêm trăng

– Đm, nhìn con này là tao thấy nứng c… liền!

Chị Thanh và Hùng mặt mày tái mét, không biết xử trí ra sao, đành đứng chôn chân một chổ và phó thác cho số phận muốn ra sao thì ra trước bọn quỷ đầu trâu mặt ngựa này ; riêng Hùng sau vài giây hoảng loạn thì định thần lại được và nhớ lại là nó có cái bình xịt nước ớt mà nó chuẩn bị từ hôm qua rất có thể có công dụng trong hoàn cảnh bi đát này

– Tụi bây áp tải hai đứa này về hang đi rồi cho con nhỏ uống thuốc! Một tên có vẻ là đầu đảng ra lệnh.

– Còn thằng nhóc này tính sao đại ca?

– Giải nó về hang trói lại. Chừng nào tụi mình mần thịt xong con ni cô rồi thì cho nó hưởng sái một chút.

Qua lời đối đáp của bọn “người rừng”, chị Thanh cũng như Hùng phần nào cũng hiểu được ý đồ dã man, đen tối của chúng, chị Thanh vừa khóc vừa nói :

– Tôi là kẻ tu hành. Mấy ông đừng làm vậy, tội chết!

– Tội thì mặc tội. Miễn sướng được rồi em!

Một tên lăm le dao găm chĩa thẳng vào người chị Thanh và Hùng, do hắn đứng gần nên Hùng thấy rất rõ cái nanh heo rừng nơi sợi dây chuyền cổ hắn đeo. “À thì ra là cái tên đi rình rập ở chùa chị Thanh hai ngày qua đây mà! Mình đoán ra là hắn theo dõi chị Thanh thật chẳng sai, cũng may mình đã chuẩn bị trước”. Lúc này, trời đã về chiều, chạng vạng tối trước màn đêm sắp sửa buông xuống núi rừng, cây cối, vạn vật. Hùng chậm rãi bước cạnh chị Thanh, phía trước có bốn tên và phía sau có bốn tên ; thật thận trọng, nó tháo cái bình xịt ra khỏi người rồi nhanh chóng quay lại, xịt xối xả vào mặt vào mũi bốn thằng quỷ rừng đi sau. Gã thanh niên đeo nanh heo rừng tên Hoành cùng ba thằng kia ôm mặt la chói lói như lợn bị chọc tiết, cả bốn thằng chẳng mấy chốc đã nằm lăn lộn dưới đất vì đôi mắt bị nước ớt bắn vào cay xè, không sao mở ra được. Bốn thằng phía trước xông lại, Hùng la lên :

– Nước ớt đây, đứa nào muốn chết thì nhào vô!

Đúng là cái bình xịt nước ớt Hùng mang theo thật vô cùng hữu hiệu, ngay cả thằng đầu đàn cũng phải gờm nữa là. Hắn lườm Hùng, chửi đổng :

– Đm, mày ngon lắm!

Không có thằng nào dám xông lên cả, Hùng biết là nó đã thắng liền nắm tay chị Thanh chạy ngược lại con đường vừa đi theo bọn lưu manh đặng về hang ổ của chúng. Chị Thanh mặt mày xanh lét như tàu lá chuối, cùng thằng em chạy bán sống bán chết, cả hai chị em đều hồi hộp lo sợ bọn quỷ rừng đuổi theo nhưng rồi chẳng thấy bóng dáng thằng nào cả, chỉ có mỗi hai chị em luýnh quýnh chạy sống chạy chết trên con đường mòn. Khi nhận thấy mình chạy đã quá xa, chị Thanh và Hùng mới dừng lại nghe ngóng rồi vừa chậm rãi đi vừa hổn hển thở ; thậm chí cả hai còn nghe được cả tiếng trái tim của nhau đang thình thịch dồn dập không thôi. Lúc này, hai chị em mới thực sự dám tin rằng mình vừa mới thoát khỏi một kiếp nạn như là một địa ngục trần gian tràn đầy nhọc nhằn, khổ ải nhưng như là tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa, chị Thanh và Hùng không thể nào lần ra được đường về Phong Sơn Tự. Lúc này, trời đã tối hẳn và trăng rằm cũng đã lên cao vằng vặc soi sáng một cõi rừng núi bao la, hùng vĩ lộng gió đêm hây hây thổi thật mát mẻ, thoải mái làm sao nhất là đối với những người vừa mới thoát nạn xong. Biết là đã bị lạc đường, hai chị em bàn nhau tìm một chổ nào đó ngủ đỡ qua đêm đến sáng mai hẵng tính ; đi được 50m, trước mặt chị Thanh và Hùng xuất hiện ngôi miếu nhỏ rộng khoảng chừng 15m2, cao 2-3m, mái lợp ngói âm dương phủ lớp rêu xám xịt với thời gian. Cầu được ước thấy, giờ thì một cái hang đi chăng nữa cũng đã là quá tốt với hai chị em , huống hồ gì là một cái miếu lót gạch bông sạch sẽ như thế này. Bệ thờ trong miếu khói nhang nghi ngút, uy nghi hai pho tượng ông Tam Tạng và ông Tề Thiên Đại Thánh bằng thạch cao sừng sững ; toàn bộ ngôi miếu được soi tỏ bằng ngọn đèn măngxông treo nơi cái móc thép lớn được bắt chết vào cây đà ngang giữa trần.

Ngôi miếu nằm trơ trọi cạnh bên một dòng suối nhỏ, nhờ vậy mà hai chị em có nước rửa ráy sạch sẽ trước khi mở cánh cửa gỗ sơn son thếp vàng để vào trong miếu. Sau bệ thờ là một khoảng trống chừng 4m2, nơi tường có một lỗ tròn thông gió đón nhận ánh trăng vằng vặc hắt vào ; trong lúc chị Thanh đang trầm tư lâm râm khấn vái trước bệ thờ thì Hùng thấy được trong gầm sau bệ thờ nào là chiếu, nào là mền gối lại có thêm vài gói mì chay, nồi, bếp dầu lò xo, tô, đũa và kể cả diêm quẹt. Vậy là đầy đủ điều kiện cho Hùng và chị Thanh, hai chị em nó có cái lót dạ dằn bụng qua đêm cầm cự tới sáng mai được rồi ; nghĩ là làm liền, nó nói cho chị Thanh biết rồi lấy nồi đi ra suối lấy nước trong khi chị Thanh xé hai vắt mì để vào tô và bật diêm, châm lửa vào bếp lò xo. Hùng trở vào, đặt nồi nước lên bếp, không đầy ba phút sau thì nước trong nồi đã sôi sùng sục ; nó cầm cái khăn cũ cầm hai quai nồi bắc xuống từ từ chế nước vào hai tô mì. Chẳng mất thời gian chờ đợi, hai tô mì đã chín và nóng sốt, hai chị em vừa cầm đũa ăn vừa chắc lưỡi hít hà liên tục vì vị chua chua cay cay của từng sợi mì. Ăn xong, Hùng cầm hai cái tô bước ra suối rửa sạch ; lúc này nó mới phát hiện ra hai cái bình toong trống rỗng nước đã rớt đi một ở chổ nào đó mà nó không hề hay biết, còn cái bình xịt nước ớt thì vẫn còn vì nó cứ thủ sẵn nơi tay và hiện nó đang để trong miếu.

Nó lấy đầy bình toong nước rồi trở vào trong miếu, cất tô cẩn thận vào gầm bệ thờ ; vậy là chứng tỏ ngôi miếu này có người hàng đêm đến ngủ trông coi nhưng tối nay, thật chẳng hiểu là họ đi đâu để nhường chổ lại cho chị Thanh và Hùng. Chi Thanh cũng đã trãi chiếc chiếu hoa hơi cũ nơi khoảng gạch trống sau bệ thờ, xếp hai cái gối tai bèo song song ở một đầu chiếu rồi ngồi vừa nắn chuỗi hạt vừa tụng kinh thầm trong miệng. Khoảng 5 phút sau, đợi chị Thanh ngã mình trước, Hùng mới dám khẽ khàng nằm xuống cạnh bên chị ; nó xổ tấm mền cũ màu xám ân cần trãi phần nhiều lên người chị Thanh và nó đắp phần khiêm tốn còn lại. Có lẽ do lạ chổ nên cả hai chị em đều trằn trọc, không ai tài nào ngủ được mặc dù trong miếu không có muỗi, lại rất mát mẻ vì gió luồn vào lồng lộng qua lổ thông tròn.

– Này Hùng, chị cám ơn em nhiều lắm! Nếu chuyến đi này không có em, chắc chắn chị sẽ tự vận mà chết chứ không thể nào chống chọi lại bọn quỷ kia.

– Thôi đi chị ơi! Mình là chị em mà. Ơn nghĩa tính toán làm chi?

– Còn nước ớt em lấy đâu ra vậy?

Hùng chậm rãi kể lại từng chi tiết sự tình xảy ra ngày hôm qua cho chị Thanh nghe và khi đã rõ sự tình, chị Thanh thực sự rất đỗi ngỡ ngàng, ngờ nghệch vì tài nghệ phán đoán của thằng em họ chú bác ruột. Im lặng giây lát, Hùng bỗng lên tiếng khẽ hỏi :

– Chị Thanh ơi, em hỏi chị chuyện này nhé?

– Chuyện gì vậy em?

– Sáu năm trước, lúc chị chưa đi tu – Giọng Hùng hơi ngập ngừng – chị có nhận được thư … em …gửi chị …không?

– Chị có đọc được nhưng đó là em đùa với chị mà, có gì đâu!

Rõ ràng là chị Thanh rất kín đáo, không hề biểu lộ một chút nào cả để Hùng thấu hiểu được nỗi lòng của mình ở chổ chị đã láy câu chuyện chết người đó thành ra chuyện đùa. Trong lúc Hùng cảm thấy thật khó chịu khi thấy chị Thanh cho rằng nó đùa với chị thì bất chợt có một con dơi khá to chẳng biết từ đâu sà xuống gần sát người chị Thanh rồi lại đập cánh bay lên, lao vút qua lỗ thông gió mất dạng. Chị Thanh hốt hoảng, sợ hãi la lên rồi như chẳng biết bấu víu vào đâu, chị luýnh quýnh ôm đại lấy thằng em để tinh thần chị được xoa dịu lại vì con dơi gớm ghiếc kia. Dĩ nhiên, đây quả là cơ hội ngàn năm có một không hai cho Hùng, không chần chờ chi cả mà trong chốc lát, nó đã vòng tay ôm vòng qua lưng người chị họ ; mắt nó ngắm nghiền lại, sung sướng hít ngửi mùi thơm dìu dịu, nhẹ nhàng tỏa ra từ nơi da thịt con gái trinh nguyên sau lớp vải áo tu hành màu xanh nhạt quyện lẫn mùi xà bông Dove thoang thoảng, quyến rũ. Trong chốc lát, không tài nào cầm lòng cho được, không đắn đo suy nghĩ, chỉ cần một thoáng qua của hương tình vị ái, như một cái máy, Hùng cúi xuống hôn nhẹ vào trán, vào mắt chị Thanh. Thật quá đỗi ngạc nhiên vì bất ngờ, chị Thanh không sao né kịp nhưng rồi chị cũng quằn người, nghiêng mặt trốn tránh đôi môi thằng em với tiếng nói mấp máy trong hơi thở :